Thần thú là những con động vật đại biểu cho sự bình an và cát tường. Chúng đều có tướng mạo đặc biệt, khí chất thần thánh uy nghiêm mà cũng tràn đầy linh tính.
1. Rồng – Vua các loài thú
Rồng là Vạn thú chi Vương, là biểu tượng của Đế Vương và là thần vật uy nghiêm không thể xâm phạm. Rồng là loài có khả năng đặc biệt trời sinh. Thân rồng dài có vảy phủ kín giống như cá, có thể sinh sống trong nước sông, hồ, biển cả, dâng lên từng trận từng trận sóng cả. Rồng uy mãnh vô song, có bờm giống bờm sư tử, sừng như sừng hươu, râu hùm, móng chim ưng, vừa có thể đi lại tự nhiên trên mặt đất, lại có thể bay thẳng lên trời, nuốt gió phun mưa.
Rồng được xem là thần thú luôn nghe lệnh các linh thú trên Thiên Thượng, thực hiện các việc không trái nghịch với thiên mệnh. Con người đối với Rồng vừa có phần tôn kính, lại có phần cảm thấy sợ hãi. Rồng là linh thú toàn năng có thể phi thiên nhập địa và đi dạo trên mặt nước. Truyền thuyết kể rằng, Rồng sẽ chiểu theo mệnh lệnh của Thiên Thượng, đem nước trong sông suối, hồ, biển cả lên trời, lại dựa trên lệnh trời mà phóng nước xuống nhân gian.
Lượng mưa nhiều hay ít là có quan hệ rất lớn đối với việc thu hoạch nông nghiệp. Con người không thể không khẩn cầu Rồng, với tư cách là thần thú làm mưa, có thể thương cảm nỗi khó khăn của đời sống con người. Con người cứ như vậy mà hình thành một cảm giác kính sợ đối với Rồng, bởi vì Rồng làm mưa như thế nào, làm mưa vào giờ nào sẽ quyết định rất lớn đối với sự tồn vong của con người.
Con người thường cung kính gọi Rồng là “Long vương”. Long vương tức chỉ Thần cai quản việc mưa gió, quản lý sông hồ. Long vương phải lên trời định kỳ để báo cáo chuyện làm mưa. Thế nhưng, các vị long vương đều rất cẩn thận tỉ mỉ chấp hành thánh dụ của Thiên Đế, nhất là sau khi bị những việc ác không thể tha thứ của loài người làm cho tức giận, các Thần sẽ dùng thần lực cho mưa gió xuống trừng phạt con người.
Nước có thể làm cho con người sống, cũng có thể làm cho con người chết. Khi mưa to thành họa, người ta đều giống nhau phải dựa vào việc “câu thông” với Rồng để xin cho mưa ngừng lại. Ví dụ, trong những năm khai nguyên nhà Đường, thiên hạ đại hạn, Đường Huyền Tông phải cho người lập đàn cầu mưa, không ngờ rằng mưa rơi quá mạnh, sông tràn thành họa. Trong lúc lo lắng, Đường Huyền Tông lại nghe lời cao nhân chỉ điểm, cho làm 5, 6 con Rồng bằng bùn trong chùa. Sau đó, ông lại sai người vừa hắt nước lên thân rồng bùn, vừa đọc lớn chú ngữ. Chỉ một lát sau, quả nhiên cơn mưa dừng lại, bầu trời quang đãng.
Là linh vật trong truyền thuyết, trên thân Rồng kết tụ hai chủng đặc trưng là “nhân ái” và “uy nghiêm”. Rồng vì con người cho mưa xuống, nuôi dưỡng vạn vật, mang lại cho con người ân huệ lớn lao. Nhưng khi con người phản trời, phản đất, không làm việc thiện còn việc ác nào cũng làm thì Rồng cũng sẽ không chút lưu tình mà nghiêm trị. Rồng thể hiện ra mặt uy nghiêm, như đại hạn, lũ lụt nặng, đại hồng thủy… Đây chính là lúc Long vương đang hành theo Thiên đạo.
2. Phượng – Loài chim cát tường
Phượng là Bách Điểu Chi Vương, biểu tượng của điềm lành. Con trống được gọi là “Phượng”, con mái được gọi là “Hoàng”. Phượng có vẻ bề ngoài vô cùng hoa mỹ, xinh đẹp. Trong “Nhĩ Nhã” miêu tả là: “đầu gà, cằm yến, mai rùa, đuôi cá, ngũ sắc, cao hơn 6 xích” (1 xích = 1/3 mét). Nếu như nói đặc điểm biểu hiện ra của Rồng là năng lực khiến người ta kính sợ vô hạn, thì Phượng lại biểu hiện ra chính là sự mỹ mạo không gì sánh bằng.
Dân gian cho rằng, Phượng Hoàng bay lượn là có sức mạnh thần kỳ “câu thông với thiên địa”. Hơn nữa Phượng Hoàng lại là loài chim mỹ lệ nhất, loài chim thiện lương nhất thiên địa trong trời đất, là biểu tượng của điềm lành.
Truyền thuyết kể rằng Phượng Hoàng sinh ra từ “nước quân tử phương Đông”, đến sống ở tiên cảnh Côn Lôn, chỉ cần Phượng Hoàng đậu ở Đan Huyệt buổi tối, trong ngày đó sẽ chào đón việc trọng đại an bình.
Trong “Sơn Hải Kinh” viết, những vị trí trên thân Phượng Hoàng đều đại biểu cho những mỹ đức khác nhau: “Hoa văn trên đầu là đức, hoa văn ở cánh là nghĩa, hoa văn ở lưng là lễ, hoa văn ở ngực là nhân, hoa văn ở bụng là tín, ăn uống tự nhiên, tự ca tự múa, gặp được thiên hạ tất sẽ an bình”. Có thể tưởng tượng ra Phượng Hoàng bay đến đâu, mang theo những ý nghĩa “đức”, “nghĩa”, “lễ”, “nhân”, “tín” đến đó. Mà bất luận là chỗ nào đầy đủ những đức hạnh tốt đẹp đó, thì nhất định sẽ nghênh đón một thời đại tốt đẹp hòa bình cát tường.
Thế kỷ 12 TCN, Chu Thành Vương tinh minh dũng cảm dốc sức vì nước, sáng lập nên thời đại giàu mạnh, trù phú và đông đúc. Các nước phía Nam đều thần phục ông, các chư hầu cùng ông liên kết đồng minh, người đương thời liên dùng hình ảnh chim Phượng Hoàng để miêu tả về thời kỳ ấy.
Thuận theo thời gian, Phượng Hoàng được trao cho nhiều tính cách phong phú khác nhau. Người xưa nói hướng đến Phượng Hoàng tức là hướng đến một cuộc sống hạnh phúc. Khi Phượng Hoàng trong truyền thuyết trở thành biểu tượng của một loạt danh từ tốt đẹp như “cát tường như ý” … thì chỉ cần niệm tên Phượng Hoàng người ta cũng sẽ cảm nhận được sự khuây khỏa và mừng rỡ.
3. Kỳ lân – Loài thú nhân đức
Phượng Hoàng là loài chim cát tường còn Kỳ lân là loài thú cát tường. Kỳ Lân là loài thú có đầu giống như đầu rồng, thân giống như thân hươu, mắt giống như mắt sư tử, lưng như lưng hổ, vai phủ vây cá, đạp móng ngựa, uy phong bát diện.
Thời cổ đại, Kỳ Lân được xem là loài thú cát tường và nhân đức. Truyền thuyết kể rằng chỉ có khi thái bình thịnh thế, thánh nhân tham gia chính sự thì Kỳ lân mới xuất hiện.
Trong “Tả Truyền” có ghi lại một câu chuyện rằng, vào mùa xuân năm thứ 14 Lỗ Ai Công, Thúc Tôn Thị bắt được một con dã thú có tướng mạo kỳ lạ. Mọi người lo lắng rằng con dã thú này mang đến điềm xấu, liền đến hỏi ý kiến Khổng Tử. Sau khi xem xong, Khổng Tử cho rằng đây chính là Kỳ lân.
Vì mọi người tin tưởng Kỳ Lân có thể mang đến cho mình may mắn nên Kỳ Lân lại càng được xem như dấu hiệu của minh quân giáng sinh. Đế Vương các triều đại đều rất thích dùng trang sức, kiến trúc có hình tù Kỳ lân, như thúc giục chính mình tiến bộ và cầu phúc cầu may.
So với mong ước mãnh liệt về chính trị của các vị Đế Vương đối với Kỳ Lân, thì trong suy nghĩ của dân chúng, Kỳ lân lại bình hòa hơn. Kỳ Lân là hóa thân của thiện lương và mỹ đức, tượng trưng cho cát tường và hạnh phúc. Truyền thuyết kể rằng, trước khi Khổng Tử giáng sinh từng có Kỳ Lân đến nhà ông, nằm phục ngay xuống trước mặt mẹ ông mà nhả ra một cái ngọc xích có chữ viết.
Tục ngữ nói: “Thiên thượng kỳ lân nhi, địa thượng trạng nguyên lang”. Dân chúng yêu thích hình dung những đứa trẻ thông minh kia là “Kỳ Lân nhi”. Trong dân gian, bức tranh ‘Kỳ Lân tiễn tử’ luôn được hoan nghênh. Ngoài ra, mọi người còn thường xuyên chọn những đồ trang sức hình Kỳ lân làm lễ vật tặng cho những đứa trẻ, chúc phúc cho trẻ sớm ngày trở thành trụ cột của quốc gia.
4. Tì hưu – Loài thú thiện lương
Tỳ Hưu thoạt nhìn bộ dạng rất hung ác, cũng là con của Rồng. Tỳ Hưu có vẻ mặt mạnh mẽ như sư tử, hai mắt nhô lên cùng răng nanh dài nhọn. Thế nhưng, sự hung ác, hung hãn của Tỳ Hưu là nhắm vào những yêu ma làm loạn thế gian và dịch bệnh nguy hại cho nhân gian. Còn đối với nhân loại thì Tỳ Hưu lại đại biểu cho điềm lành, lương thiện.
Tỳ Hưu có cái miệng rộng có thể nuốt vạn vật, nhưng lại không dùng hậu môn bài tiết. Đặc điểm “chỉ vào chứ không ra” này của Tỳ Hưu rất được những người tham lam yêu thích. Họ đều hy vọng vàng bạc tài phú đến giống như Tỳ Hưu nuốt vạn vật, liên tục không ngừng chảy vào túi của mình. Mặt khác, do Tỳ Hưu đối với chủ nhân rất trung thành tận tâm, lại có phẩm tính chính trực nên dân gian luôn xem Tỳ Hưu với tư cách linh thú giữ nhà bảo hộ, trấn hung trừ tà. Trên đầu Tỳ hưu có mọc sừng, phân ra làm hai loại là có một sừng và hai sừng. Tỳ Hưu mọc một sừng gọi là “Thiên lộc”, hai sừng gọi là “Trừ tà”.
Về nguồn gốc của “Thiên lộc” và “Trừ tà”, trong “Sử Ký” có ghi lại: “Vào thời Hiên Viên, thế Thần Nông đã suy. Chư hầu đánh phá lẫn nhau, tàn hại dân chúng, Thần Nông không ngăn phạt được. Hiên Viên bèn trau dồi binh cụ, tiến đánh những nơi không thuận, các chư hầu vì thế đều chịu phục tùng, duy có kẻ hung bạo nhất là Viêm Đế vẫn chưa chinh phạt được. Viêm Đế muốn xâm lăng chư hầu, các chư hầu đều về với Hiên Viên. Hiên Viên bèn tu sửa đạo đức, chấn chỉnh binh bị, tùy thời tiết trồng ngũ cốc, thăm hỏi dân chúng, huấn luyện các loài cầy, gấu đen, gấu trắng, hổ, báo đánh nhau với Viêm Đế tại cánh đồng Phản Tuyền. Sau ba trận, ông được đắc chí”.
Hiên Viên ở đây chính là Hoàng Đế. Trong quá trình ông thiết lập thống trị, Tỳ Hưu đã lập nhiều công lao hiển hách. Để khen ngợi Tỳ Hưu, ông phong Tỳ Hưu là “Thiên lộc”, phụ trách chăm sóc tài phú cho Hoàng thất. Vì thế, Tỳ Hưu cũng được gọi là “Đế Bảo”. Cân nhắc đến sự dũng mãnh thiện chiến của Tỳ Hưu, vì cố thủ, tà vật tự nhiên khiếp đảm, mọi người lại gọi Tỳ Hưu là “Trừ tà”.
Đế Vương ngày xưa khi chiến tranh, ưa thích bày ra quân kỳ có hình vẽ Tỳ Hưu nhằm chấn nhiếp kẻ địch, đồng thời vừa biểu hiện uy thế dũng mãnh của mình. Hơn nữa, phàm là chiến tranh, song phương giao chiến đều hy vọng có thể mượn thời cơ công thành đoạt đất, thu hoạch tài phú, mọi người hy vọng TỲ Hưu vốn chỉ “nuốt vào chứ không nhả ra” có thể mang đến vận may cho mình.
Không phải ai khi mang hết kỳ vọng ký thác vào Tỳ Hưu đều có thể hiểu được 2 hàm nghĩa quan trọng “tài vượng” và “trấn tà”. Bởi có câu người “quân tử ái tài thủ chi hữu đạo”, nghĩa là người quân tử dẫu coi trọng tài vật nhưng lấy phải theo Đạo. Mọi người thường xuyên mang tượng Tỳ Hưu có tướng mạo hung ác đặt ở đằng trước, hy vọng có thể ngăn tai họa, tích tụ tài phú, nhưng lại quên mất rằng Tỳ Hưu cho dù có trung thành cũng chỉ có thể vì người mà ngăn cản những tai nạn bên ngoài, nếu như trong tâm con người chuyển biến thành đen tối, họa khởi từ vận mệnh bản thân thì Tỳ Hưu cũng không giúp gì được, bởi chính tự bản thân họ đã chiêu mời mà đến.
Dùng Tỳ Hưu hung ác làm biểu tượng tích tụ tài nguyên, tạo tiền tài bằng mưu sâu kế hiểm, đều là tự chuốc họa vào thân, chuyện thế nhân bao đời đã dạy cho hậu thế rằng “tiền có thể tạo nên thành tựu cho con người, nhưng cũng có thể hủy diệt con người”. Khi một người vì tham lam tiền tài mà sa đọa, thì người đó cũng trở thành “tà vật” mà Tỳ Hưu căm ghét.
An Hòa (dịch theo sự cho phép của tác giả)