Trong thời loạn thế, truyền kỳ về hòa thượng Bố Đại ung dung phóng khoáng, vui cười phơi phới, tay cầm túi vải vân du kết thiện duyên, giáo hóa thế gian, đã để lại ngụ ý sâu xa.
Khi triều Đại Đường hạ tấm màn hoa lệ xuống, thời Ngũ Đại Thập Quốc bắt đầu cùng nhau lên diễn màn kịch lớn loạn thế phân tranh. Trong bối cảnh ấy, một vị Bố Đại hòa thượng ung dung phóng khoáng, thoát tục vui cười trong cõi trần ai với tấm lòng rộng lớn nhẫn được những việc khó nhẫn nhất đã trở thành một nhân vật truyền kỳ đương thời.
Vân du kết thiện duyên, giáo hóa khắp thiên hạ
Bố Đại hòa thượng cũng được gọi là Trường Đinh Tử Bố Đại thiền sư. Sự ra đời của ông cũng nhuốm màu huyền thoại. Tương truyền vào những năm cuối đời Đường, trên suối Long Khê ở Phụng Hóa, Minh Châu có một bó củi trôi xuống, trên bó củi có một đứa trẻ. Ông Trương Trọng Thiên ở thôn Trường Đinh trông thấy đứa bé này chân tay mập mạp tròn trịa lại luôn nhoẻn miệng cười ngây thơ bèn ôm lấy đứa bé. Lúc này ông mới phát hiện ra bé được lót bởi một chiếc bao vải xanh. Trương Trọng Thiên bế đứa bé về nhà nuôi, đặt tên là Khiết Thử. Vì đứa bé lớn lên ở thôn Trường Đinh nên về sau có tên hiệu là Trường Đinh Tử.
Sau khi Khiết Thử lớn lên thì đến một ngôi chùa xuống tóc xuất gia. Ông dùng một cây thiền trượng, trên có buộc một cái túi vải (bố đại), đơn thân một mình đi vân du khắp thiên hạ. Ông gặp thứ gì thì ăn thứ ấy, hễ những gì ăn được ông đều bỏ vào trong túi vải, dó đó mọi người gọi ông là Bố Đại hòa thượng, nghĩa là ‘hòa thượng Túi Vải’.
Tương truyền, mỗi khi ông khất thực thì xung quanh luôn có 18 đứa trẻ đi theo. Mọi người đều không biết những đứa trẻ từ nơi nào đến, đuổi cũng không đi. Mùa hè nóng nực, Bố Đại hòa thượng tắm gội dưới suối, những đứa trẻ này vui đùa với ông. Đương thời có Lục Sinh giỏi vẽ đã vẽ chân dung Bố Đại hòa thượng trên bức tường một ngôi chùa.
Ông đi lại trong thế gian, giáo hóa rộng rãi. Khi mệt thì ông đến đâu liền tìm một chỗ ở đó ngủ nghỉ ngơi. Ông có một bài kệ rằng:
Một bát cơm nghìn nhà,
Thân cô du vạn lý.
Mắt xanh nhìn người ít,
Hỏi đường mây trắng xa.
Nguyên văn:
Nhất bát thiên gia phạn,
Cô thân vạn lý du.
Thanh mục đổ nhân thiểu,
Vấn lộ bạch vân đầu.
Mấy câu này chính là miêu tả chân thực cảnh ông đi vân du khắp thiên hạ, kết thiện duyên rộng khắp.
Có một vị cư sỹ họ Trần hỏi ông: “Làm sao để không rơi vào vòng xoáy nghị luận thị phi của người khác?”.
Bố Đại hòa thượng liền hát một bài kệ “Nhẫn nhục kệ” cho vị cư sỹ rằng:
Thị phi yêu ghét thế gian nhiều,
Suy ngẫm mới hay khó xoay chiều.
Mở rộng tấm lòng thường nhẫn nhục,
Buông bỏ u uất ắt sẽ tiêu.
Gặp người tri kỷ nên theo phận,
Nếu gặp oan gia cũng thuận hòa.
Lòng này ví chẳng còn vướng ngại,Tự nhiên chứng được Lục Ba La.
Nguyên văn:
Thị phi tăng ái thế thiên đa,
Tử tế tư lượng nại ngã hà.
Khoan khước đỗ bì thường nhẫn nhục,
Phóng khai ương nhật ám tiêu ma.
Nhược phùng tri kỷ tu y phận,
Túng ngộ oan gia dã cộng hòa.Ư
Yếu sử thử tâm vô quải ngại,
Tự nhiên chứng đắc lục ba la
Đại ý là:
Trên thế gian này thì thị phi yêu ghét quả là quá nhiều, nhưng nếu xem xét kỹ lưỡng thì thấy có thể làm gì được đâu?
Nếu có thể mở rộng tấm lòng thì có thể nhẫn chịu được khuất nhục, nếu có thể mở rộng tấm lòng, buông bỏ dục vọng thì những tối tăm u ám sẽ tiêu tan.
Cho dù là đối với người tri kỷ hay đối với oan gia thì cũng cần chung sống hòa thuận, trong tâm không bị tổn thương hay phiền não với yêu và hận thì thân tâm tự nhiên sẽ điềm đạm tự tại, sẽ đắc được Lục Độ (tức 6 phương pháp để đi đến giải thoát gồm: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí huệ).
Tuy Bố Đại hòa thượng thường độc hành, nhưng những người có tầm mắt trí tuệ đều vô cùng cung kính ông. Một hôm có người mời Bố Đại hòa thượng dùng bữa chay xong, lại khẩn khoản mời ông lưu lại để làm tròn nghĩa cung kính của đệ tử. Sáng sớm hôm sau, Bố Đại hòa thượng liền viết trên cổng nhà người này một bài kệ:
Ta có một thân Phật,
Có ai tỏ tường đâu.
Chẳng vẽ cũng chẳng tô,
Không chạm cũng không khắc.
Chẳng có chút bùn đất,
Không phải màu thể sắc.
Thợ vẽ, vẽ không xong,
Kẻ trộm, trộm chẳng mất.
Thể tướng vốn tự nhiên,
Thanh tịnh trong vằng vặc.
Tuy là có một thân,
Phân thân trăm ngàn ức.
Hé lộ Thiên cơ
Ngày 3 tháng 3 năm Trinh Nguyên thứ 2 đời Hậu Lương (tức năm 916), trước khi viên tịch, Bố Đại hòa thượng ngồi ngay ngắn trên một tảng đá hành lang phía Đông chùa Nhạc Lâm. Ông thuyết một bài kệ rằng:
Di Lặc chân Di Lặc,
Phân thân trăm ngàn ức.
Luôn ở trước mọi người,
Mà mọi người chẳng biết.
Nguyên văn:
Di Lặc chân Di Lặc,
Phân thân thiên vạn ức.
Thời thời thị thời nhân,
Thời nhân tự bất thức.
Thuyết nói xong, ông an nhiên viên tịch.
Lúc này mọi người mới biết, thì ra Bố Đại hòa thượng là hóa thân của Phật Di Lặc. Vì vậy người dân vùng Chiết Giang bèn lấy hình tượng khi ngài trụ thế, mời họa sỹ vẽ chân dung để thường xuyên thắp hương lễ bái.
Theo “Tống cao tăng truyện” – Quyển 21”
***
Một truyền kỳ về hòa thượng Bố Đại diễn dịch thời loạn thế đã để lại ngụ ý sâu xa. Chiếc túi vải theo Phật Di Lặc đi lại khắp thế gian dường như đang nhắc nhở mọi người rằng, hãy đem hết phiền não thế gian bỏ vào trong túi, buông bỏ hết thị phi ân oán trong tâm thì sẽ đắc được phúc đức bất tận.
Bố Đại hòa thượng đã từng nói với người nông phu rằng:
Tay nắm mầm xanh trồng ruộng phúc,
Cúi đầu liền thấy trời dưới chân.
Nguyên văn:
Thủ niết thanh miêu chủng phúc điền,
Đê đầu tiện kiến thủy trung thiên.
Ngài đã dùng ngôn ngữ cực kỳ nông cạn nói với người thế gian rằng, người vui thí xả hành thiện tức là không ngừng cày cấy ruộng phúc của mình. Khi biết cúi đầu xuống, nhẫn được tức khí oán hận trong tâm thì chính trong khoảnh khắc cúi đầu đó sẽ nhìn thấy được bầu trời mênh mông chiếu rọi trong nước. Thì ra bầu trời cao không thể với tới kia lại chính là đang ở trong con mắt chính mình. Do đó Bố Đại hòa thượng nói: “Lùi chính là tiến” (thoái hậu nguyên lai thị hướng tiền).
***
Có lẽ câu chuyện Bố Đại hòa thượng nên kết thúc ở đây. Tuy nhiên trong dòng sông dài của thời gian, bất ngờ nổi lên hàng ngàn con sóng lăn tăn, hàng ngàn ánh nắng lấp lánh, những ánh sáng rực rỡ xuyên qua thời gian vẫn lấp lánh lung linh.
Năm Nguyên Phù thứ nhất đời Bắc Tống (năm 1098), Tống Triết Tông phong Hòa Thượng bố đại làm “Định Ứng Đại Sư”. Năm Sùng Ninh thứ 3 (năm 1104), trụ trì chùa Nhạc Lâm quyên góp xây Các, làm tượng thờ Phật Di Lặc trong chùa. Tống Huy Thông ban tên cho Các là “Sùng Ninh”. Trên ngọn núi Phi Lai Phong đối diện với chùa Linh Ẩn là trên 300 bức tượng đá tạc vào trong vách đá từ đời Ngũ Đại đến nay. Một bức tượng lớn nhất trong đó chính là tượng Phật Di Lặc lấy nguyên mẫu Bố Đại hòa thượng.
Có một bức tranh cuối đời Minh đầu đời Thanh tên là “Thập tử náo Di Lặc đồ”. Phật Di Lặc trong tranh này thân hình đầy đặn béo tốt, phanh ngực hở bụng, miệng cười lớn. Tay phải ngài cầm tràng hạt Phật Châu, ngồi dựa vào cái túi vải lớn. Chung quanh ngài là 10 đứa trẻ mỗi đứa thần thái khác nhau, rất vui vẻ tinh nghịch đùa vui. Lũ trẻ đứa trèo lên vai Phật Di Lặc, đứa thì kéo tai ngài, đứa thì kéo đòi thiền trượng của ngài, đứa thì kéo đòi tràng hạt Phật Châu. Lũ trẻ vui đùa và Phật Di Lặc từ bi tường hòa khiến bức tranh sống động như thật.
Phật Di Lặc độ lượng bao dung, nhẫn những chuyện khó nhẫn trong thế gian, tan hết bao nhiêu ưu sầu nơi nhân thế. Ngài vui cười phơi phới, tiêu tan hết bao nhiêu thị phi ân oán cổ kim trong thiên hạ. Phật Di Lặc từ bi, tấm lòng rộng lớn bao dung cả đất trời, bạn trông thấy phải chăng cũng tươi cười rạng rỡ?
Theo Hoàng Phủ Dung – Đại Kỷ Nguyên tiếng TrungNhất Tâm biên dịch